Cái Giá Của Đại Học Mỹ
Chủ Nhật, 5 tháng 4, 2015
"Sau
khi Chúa mang chúng ta đến New England một cách an toàn và chúng ta đã
xây nhà cửa, cung cấp vật dụng thiết yếu cho cuộc sống, dựng nơi thờ
phụng Chúa… thì một trong những điều tiếp theo mà chúng ta ao ước và tìm
kiếm là có được nền giáo dục tiên tiến và duy trì cho đến thế hệ con
cháu mai sau”. Đó là thư gọi vốn cho bậc đại học đầu tiên, được
Trường Harvard gửi sang Anh vào năm 1643 để huy động mọi người góp vốn
vào Trường.
Sự
đam mê ngay từ sớm của Mỹ đối với nền giáo dục bậc đại học đã đưa nước
này trở thành hệ thống giáo dục huy động được nhiều vốn nhất và lớn nhất
trên thế giới. Mô hình đại học của Mỹ là mô hình đại học nghiên cứu
hiện đại, một sự kết hợp giữa Đại học Oxbridge và trường đại học nghiên
cứu Đức vào thế kỷ XIX. Từ khi ra đời, nó đã trở thành tiêu chuẩn vàng
cho cả thế giới. Các trường đại học tư lẫn công từ Harvard, Yale cho đến
Princeton, Caltech đều ứng dụng mô hình đại học nghiên cứu này và nhờ
đó, đã nhanh chóng nổi lên là những động lực lớn trong thế giới khoa học
và tri thức.
Trên
thực tế, các trường đại học Mỹ đã cho ra đời rất nhiều phát minh, giúp
cho thế giới trở thành một nơi an toàn hơn, dễ chịu hơn và thú vị hơn.
“Hãy tưởng tượng cuộc sống mà không có vắc-xin bại liệt và máy điều hòa
nhịp tim… hoặc các hệ thống lọc nước thành phố, hoặc các liệu pháp điều
trị ung thư tiên tiến…”, một nhóm nhà lãnh đạo doanh nghiệp của Mỹ đã
viết thư gửi lên Quốc hội vào năm 1995, yêu cầu Chính phủ đừng cắt giảm
chi tiêu vào nghiên cứu dành cho các trường đại học.
Những
điều đó đã phần nào cho thấy tầm quan trọng của các trường đại học Mỹ
đối với thế giới, ít nhất là về mặt nghiên cứu. Trong năm 2014, 19 trong
số 20 trường đại học trên thế giới mà thực hiện được các báo cáo nghiên
cứu được trích dẫn nhiều nhất đều là Mỹ.
Không
chỉ thế, Mỹ cũng dẫn dắt cả thế giới trong việc “đại chúng hóa” nền
giáo dục đại học. Điều này một phần là do nền kinh tế cần những lao động
có kỹ năng cao hơn và một phần là xã hội muốn những người lính đã chiến
đấu trong Thế chiến Thứ hai có được cơ hội để nâng cao bản thân. Vì
thế, Mỹ đã trở thành nước đầu tiên trên thế giới mà con cái thuộc tầng
lớp trung lưu được đi học đại học và đại học đã trở thành tấm hộ chiếu
để đi đến sự giàu có.
Với
sự thành công này, không có gì đáng ngạc nhiên khi cách người Mỹ tiếp
cận nền giáo dục đại học được nhân rộng khắp thế giới. Tại Trung Quốc,
số sinh viên đã tăng từ 1 triệu người lên tới 7 triệu người trong giai
đoạn 1998-2010. Trong thập niên kết thúc vào năm 2009, các trường đại
học Trung Quốc đã tuyển dụng gần 900.000 giảng viên mới làm việc toàn
thời gian. Trung Quốc giờ “sản xuất” ra số sinh viên tốt nghiệp còn
nhiều hơn cả Mỹ và Ấn Độ cộng lại và đến năm 2020 nước này đặt mục tiêu
sẽ đạt tỉ lệ 40% số người trẻ nhập học đại học.
Xét
trên toàn cầu, tỉ lệ nhập học đại học đã tăng từ 14% lên 32% trong 2
thập niên kết thúc vào năm 2012. Trong cùng thời gian, số quốc gia có tỉ
lệ nhập học đại học hơn 50% đã tăng từ 5 lên con số 54 quốc gia. Thậm
chí, số người nhập học đại học còn tăng nhanh hơn cả nhu cầu mua sắm xe
hơi. Cơn sốt bằng cấp này cũng là điều dễ hiểu: vì hiện nay đó là một
điều kiện cần để có được một công việc tốt và là tấm vé gia nhập vào
tầng lớp trung lưu.
Cơn
sốt đại học cũng khiến cho cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia nhằm tạo
ra các trường đại học nghiên cứu tầm cỡ quốc tế như Mỹ cũng trở nên sôi
nổi. Và vì thế, chi tiêu vào giáo dục bậc đại học cũng tăng lên: các
quốc gia thuộc OECD đã chi tiêu 1,3% GDP vào giáo dục bậc đại học vào
năm 2000, đến năm 2011 con số này là 1,6%. Với mô hình đại học của Mỹ
được nhân rộng hơn nữa, tỉ lệ này sẽ càng tăng cao hơn. Tính ra, Mỹ hiện
dành 2,7% GDP vào giáo dục bậc đại học.
Trong
khi mô hình Mỹ được nhân rộng khắp thế giới thì tại quê nhà, mô hình
này lại đang chật vật. Các trường đại học Mỹ vẫn thực hiện nhiều nghiên
cứu hàng đầu nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Nhưng vấn đề không nằm ở
nghiên cứu mà ở khía cạnh giảng dạy.
Một
thực tế là các sinh viên tốt nghiệp đại học Mỹ đang cho thấy thành tích
kém trong các đợt xếp hạng về giỏi toán quốc tế và khả năng viết. Trong
một nghiên cứu gần đây về thành tích học tập, 45% số sinh viên ở Mỹ
không đạt được thành tựu gì trong 2 năm đầu tiên đại học. Trong khi
thành tích trung bình của sinh viên tốt nghiệp Mỹ thấp so với các nước
khác và ngày càng sa sút thì học phí đã tăng gần như gấp đôi (xét theo
giá trị thực) trong vòng 20 năm qua. Nợ sinh viên nước này hiện xấp xỉ
1.200 tỉ USD, cao hơn nợ cho vay mua ôtô và cả nợ thẻ tín dụng.
Điều
đó không có nghĩa, đi học đại học là một khoản đầu tư không hiệu quả
đối với một sinh viên, vì bằng cấp cử nhân ở Mỹ vẫn tạo ra suất sinh lời
trung bình là 15%. Nhưng điều đáng quan tâm hơn là việc ngày càng đổ
tiền nhiều hơn vào giáo dục đại học liệu có “hợp lý” cho toàn xã hội nói
chung. Nếu sinh viên tốt nghiệp kiếm được nhiều tiền hơn sinh viên chưa
tốt nghiệp vì việc học đã giúp họ có năng suất làm việc tốt hơn thì
giáo dục đại học sẽ đẩy mạnh được tăng trưởng kinh tế và xã hội sẽ muốn
thúc đẩy hơn nữa việc đầu tư vào đại học.
Các
nghiên cứu ở góc độ nhà tuyển dụng lại cho thấy một khía cạnh thú vị
khác. Một nghiên cứu gần đây của các công ty cung cấp dịch vụ chuyên
nghiệp về tuyển dụng cho thấy họ tuyển các sinh viên tốt nghiệp từ các
trường đại học uy tín nhất không phải vì những gì mà các ứng viên có thể
đã được học tại đó mà là vì các quy trình sàng lọc khắt khe của các
trường này. Nói cách khác, nhà tuyển dụng dường như đang thông qua các
trường học danh tiếng để tìm ứng viên nào thông minh hơn cho công ty họ,
chứ không phải vì kiến thức mà sinh viên học được. Còn đối với sinh
viên, họ có thể đã trả một số tiền rất lớn chỉ để trải qua một cơ chế
sàng lọc đầu vào rất tỉ mỉ.
Vì
hầu như không có thước đo nào để đánh gái liệu trường đại học nào thực
sự đào tạo nên người giỏi nên cũng không rõ liệu đầu tư nhiều vào giáo
dục đại học có xứng đáng. Theo giới chuyên gia, chính phủ cần phải là
người thúc đẩy sự sàng lọc các trường đại học vì trường đại học chỉ có
lợi lớn cho xã hội nếu sinh viên được trang bị những kiến thức họ cần.
Nếu không, sẽ có một số tiền lớn bị lãng phí.
VĂN QUỐC (Theo The Economist)/ Nhịp cầu đầu tư
All comments [ 0 ]
Your comments